Trang chủ
0

(0) Sản phẩm trong giỏ

0 VND

Công nghệ hàn Mig-Mag

Khái niệm về hàn mig, hàn mag

Hàn hồ quang bằng điện cực nóng chảy trong môi trường khí bảo vệ (Gas metal arc welding - GMAW) phân thành 2 loại: MAG và Mig (Mag: Metal active gas welding; MIG:metal inert gas welding) là quá trình hàn nóng chảy trong đó nguồn nhiệt hàn được cung cấp bởi hồ quang tạo ra giữa điện cực nóng chảy (dây hàn) và vật hàn: hồ quang và kim loại nóng chảy được bảo vệ khỏi tác dụng của oxi và nitơ trong môi trường xung quanh bởi một loại khí hoặc một hỗn hợp khí.

Hàn mig mag

Hàn Mig hiện nay rất phổ biến

Khí bảo vệ có thể là khí trơ (Ar, He hoặc hỗn hợp Ar + He) không tác dụng với kim loại lỏng trong khi hàn hoặc là các loại khí hoạt tính (CO2; CO2 + O2; CO2 + Ar, ...) có tác dụng chiếm chỗ và đẩy không khí ra khỏi vùng hàn để hạn chế tác dụng xấu của nó.

Khi điện cực hàn hay dây hàn được cấp tự động vào vùng hồ quang thông qua cơ cấu cấp dây, còn sự dịch chuyển hồ quang dọc theo mối hàn được thao tác bằng tay thì gọi là hồ quang bán tự động trong môi trường khí bảo vệ.

Máy hàn Mig

Máy hàn MIG

Có 4 phương pháp dịch chuyển kim loại vào xũng hàn: hình cầu, ngắn mạch, phun và xung phun, mỗi dạng có đặc tính khác biệt riêng.

Sự hình thành và phát triển hàn MIG, hàn MAG

Năm 1920 tiên phong cho GMAW được phát minh bởi P.O.Nobel

Năm 1948 cuối cùng đã được phát triển bởi Viện Battelle Memorial,nhưng nó có chi phí cao do sử dụng lượng lớn khí trơ.

Năm 1953,sử dụng khí các bon làm cho hàn GMAW ngày càng sử dụng rộng rãi.

Năm 1958-1959,hồ quang ngắn mạch trong GMAW tăng tính linh hoạt và hàn các vật liệu mỏng.

Năm 1960, đã thêm vào khí bảo vệ một lượng nhỏ OXY.

Gần đây hồ quang xung được áp dụng và ngày càng phát triển.

Hàn Mig rất phổ biến

Hàn Mig rất phổ biến

Ứng dụng hàn MIG, hàn MAG trong thực tế

Nó không những có thể hàn các loại thép kết cấu thông thường, mà còn có thể hàn các loại thép không gỉ, thép chịu nhiệt, thép bền nóng, các hợp kim đặc biệt, các hợp kim nhôm, magiê, niken, đồng, các hợp kim có ái lực hóa học mạnh với ôxi:

Được dùng phổ biến trong hàn tự độngbán tự động.

Chiều dày vật hàn từ 0,4-4,8 mm thì chỉ cần hàn một lớp mà không phải vát mép, từ 1,6-10mm thì hàn một lớp có vát mép, còn từ 3,2-25mm thì hàn nhiều lớp.

Phương pháp hàn này có thể sử dụng được ở mọi vị trí trong không gian. Không thích hợp cho hàn ngoài trời, bởi vì sự chuyển động của không khí xung quanh có thể làm ảnh hưởng tới khí bảo vệ và mối hàn.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

G

0904.56.8586